Đề cương ôn tập môn Ngữ văn 12

docx 15 trang lethu 25/09/2025 270
Bạn đang xem tài liệu "Đề cương ôn tập môn Ngữ văn 12", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề cương ôn tập môn Ngữ văn 12

Đề cương ôn tập môn Ngữ văn 12
 VỢ CHỒNG A PHỦ
 - Tô Hoài -
A. TÌM HIỂU CHUNG
I. Tác giả và tác phẩm
1. Tác giả
- Tô Hoài sinh năm 1920. Tên khai sinh là Nguyễn Sen, sinh ra và lớn lên ở quê ngoại, làng Nghĩa 
Đô (ven sông Tô Lịch), thuộc phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay là phường Nghĩa Đô, quận Cầu 
Giấy, Hà Nội). Quê nôin ở làng Cát Động, thị trấn Kim Bài, tỉnh Hà Đông (nay là Hà Tây).
- Tô Hoài chỉ được học hết bậc tiểu học, làm nhiều nghề để kiếm sống trước khi cầm bút. 
* Trước cách mạng T8/1945, Tô Hoài viết nhiều với hai đề tài chính:
+ Truyện về loài vật
+ Truyện về cuộc sống của những người thợ thủ công nghèo ở quê ngoại.
+Tác phẩm chính : Dế mèn phiêu lưu kí (đồng thoại, 1941), Quê người (tiểu thuyết, 1941), O chuột 
(tập truyện về loài vật, 1942), Nhà nghèo (tập truyện ngắn, 1944),
* Sau CMT 8/1945 sáng tác của ông xoay quanh các đề tài : miền núi Tây Bắc, Việt Bắc trong cách 
mạng, kháng chiến và xây dựng CNXH ; sáng tác cho thiếu nhi ; chân dung và hồi ức. Những tác 
phẩm chính: Vào vùng Mường (tập kí, 1947), Truyện Tây Bắc (tập truyện, 1953), Mười năm (tiểu 
thuyết, 1957), Miền Tây (tiểu thuyết, 1967), Người ven thành (tập truyện ngắn, 1972), Tự truyện 
(1978), Quê nhà (tiểu thuyết, 1980), Mùa thu Luang Phabang (tập kí, 1984), Chuyện cũ Hà Nội 
(tập kí, 1986), Cát bụi chân ai (hồi kí, 1992),.
2. Tác phẩm 
a) Hoàn cảnh sáng tác
- Mùa thu năm 1952, Tô Hoài đi với bộ đội vào giải phóng Tây Bắc này đã giúp cho Tô Hoài hiểu 
biết sâu sắc hơn về cuộc sống và con người miền núi, đã để lại cho nhà văn những kỉ niệm sâu 
sắc, tình cảm thân thiết với con người và thiên nhiên Tây Bắc.
- Truyện Tây Bắc (1953) - Kết quả chuyến đi ấy - gồm 3 truyện: Cứu đất cứu Mường, Mường Giơn 
và Vợ chồng A Phủ. Tác phẩm đã được trao Giải nhất Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1958-
1955.
- Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn trong tập truyện Tây Bắc. Truyện có hai phần viết về hai giai 
đoạn của cuộc đời Mị và A Phủ ; giai đoạn ở Hồng Ngài, trong nhà thống lí Pá Tra ; giai đoạn ở 
Phiềng Sa, hai vợ chồng gặp gỡ cách mạng rồi trở thành du kích.
b) Cảm hứng sáng tác
- “Đất nước và con người Tây Bắc đã để lại thương nhớ cho tôi nhiều quá, tôi không thể bao giờ 
quên () Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành người, thành 
việc trong tâm trí tôi ()Ý tha thiết với đề tài là một lẽ quyết định. Vì thế tôi viết truyện Tây Bắc”. 
- Cảm hứng sáng tác là cảm hứng hồi sinh, cảm hứng ngợi ca và cảm hứng nhân đạo. Cụ thể là:
+ Chú tâm đến vấn đề: Số phận cá nhân và quan trọng hơn là số phận cộng đồng. + Bằng sự quan sát tinh tế, phân tích tâm lí sâu sắc, nhà văn đã khám phá và diễn tả thành công 
diễn biến tâm lí của Mị trong đêm tình mùa xuân ấy.
+ Nhà văn đã miêu tả sự tác động của ngoại giới – xuân về sớm trên bản Mường, tiếng sáo gọi 
bạn yêu rập rờn – làm hồi sinh tâm hồn Mị. Mị sống với tiếng sáo trong lòng. Tiêng sáo như dìu 
hồn Mị về thuở thanh xuân. Tiếng sáo sưởi ấm tâm hồn. Rồi bữa rượu bên bếp lửa và người ốp 
đồng. Tất cả giúp Mị ý thức về thời gian. Mị thấy mình còn trẻ. Mị cảm thấy sức sống, sự sống trỗi 
dậy ào ạt. Lòng Mị phơi phới niềm yêu đời và khao khát tình yêu tuổi trẻ.
+ Mị lén uống rượu, uống ừng ực từng bát, vào buồng thắp đèn, quấn lại tóc, với tay lấy váy áo 
hoa, Một chuỗi hành động gợi tâm lí ; hận, quên thực tại nghiệt ngã, chỉ còn sống trong nỗi nhớ 
của những mùa xuân xưa. Mị muốn đi chơi. Sự thức tỉnh của Mị giống như sự phục sinh tâm hồn. 
Bắt đầu từ tiềm thức đến ý thức và cuối cùng là hành động vùng thoát khỏi thực tại nghiệt ngã. 
Đây là quá trình phát triển tâm lí của một con người khát sống, ý thức được thân phận.
- Sức sống của Mị vào đêm đông trên núi cao.
+ Tô Hoà đã chọn cái đêm A Phủ bị trói đứng ở cọc để tạo ra sự tạo ngộ, nhưng vĩnh hằng giữa 
hai nhân vật.
+ Thật ra những đêm A Phủ bị trói đứng, Mị ngồi bên bếp lửa, tâm hồn người phụ nữ này cũng có 
những biến chuyển theo chiều đi lên.
+ Lúc đầu Mị thản nhiên hơ lửa, chỉ biết ở với ngọn lửa. Mị vẫn chìm trong trạng thái vô cảm, vô 
giác, vô tri.
+ Nhưng cái đêm A Phủ khóc “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai má đã xạm đen”, Mị đã 
xúc động, đồng cảm và tình thương đã chiến thắng nỗi sợ hãi. “Mị nghĩ mình có thể phải trói thay 
vào đấy, chết trên cái cọc ấy, nhưng cũng không thấy sợ”.
+ Tình thương và sự đồng cảm thân phận đã dẫn Mị đến hành động táo bạo; cắt dây trói cứu A 
Phủ. Và đúng vào khoảng khắc ấy, khát vọng sống một lần nữa trở về, bùng lên mãnh liệt trong 
hồn Mị, “người đàn bà chê chồng” này đã chạy theo A Phủ. Mị tự giải phóng mình ra khỏi sự ràng 
rịt của số phận tìm đến chân trời hnạh phúc và tự do.
Sơ kết; Mị có những tính cách nổi bật : Ít hành động, có sức sống nội tâm âm thầm mà mạnh mẽ.
2. Hình tượng nhân vật A Phủ
a) A Phủ là chàng trai nghèo miền núi, mồ côi, sống tự lập, tính cách cứng cỏi, gan bướng, lao 
động giỏi, khoẻ mạnh, ham thích những công việc nặng nhọc và mạo hiểm,
b) Đứa con của núi rừng tự do ấy vẫn không thoát khỏi thân phận nô lệ
- A Phủ đánh A Sử - con thống lí Pá Tra - bị bắt, bị đánh đập tàn nhẫn, chửi bới thậm tệ trong cuộc 
sử kiện lạ lùng. Chúng đánh, chửi, ăn, hút rồi bắt A Phủ ở đợ để trừ số nợ một trăm đồng bạc hoa 
xoè ấy.
- A Phủ lại bị trói đứng ở cọc không biết đến bao giờ vì lỡ để hổ ăn mất một con bò. 
IV. Giá trị nghệ thuật tạo hoàn cảnh để đổi đời, hồi sinh của con người miền núi Tây Bắc khi bắt gặp ánh sáng cách 
mạng.
ĐỀ ÔN LUYỆN
Đề 1: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo của Vợ chồng A Phủ
Đề 2: Phân tích nhân vật A Phủ trong truyện Vợ chồng A Phủ
Đề 3: Ý nghĩa tiếng sáo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
Đề 4. Phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân và đêm cứu A 
Phủ.
 VỢ NHẶT
 - Kim Lân –
 I. Tìm hiểu chung
 1. Tác giả: Kim Lân(1920-2007)
 - Thế giới nghệ thuật của ông thường là khung cảnh nông thôn, hình tượng người nông dân.
 - Là nhà văn một lòng một dạ đi về với "đất", với "người" với "thuần hậu nguyên thủy" của cuộc 
 sống nông thôn.
 - Nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2001.
 2. Tác phẩm
 a. Xuất xứ: Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân in trong tập truyện "Con chó xấu 
 xí"(1962)
 b. Hoàn cảnh sáng tác: Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết"Xóm ngụ cư" được viết ngay 
 sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và bị mất bản thảo. Sau khi hoà bình lập lại(1954),Kim 
 Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này.
 c. Ý nghĩa nhan đề:
– Nhan đề gợi tình huống éo le, kích thích trí tò mò người đọc. Thông thường, người ta có thể nhặt 
thứ này, thứ khác, chứ không ai “nhặt” “vợ”. Bởi dựng vợ gả chồng là việc lớn, thiêng liêng, có ăn 
hỏi, có cưới xin theo phong tục truyền thống của người Việt, không thể qua quýt, coi như trò đùa.
– “Vợ nhặt” là điều trái khoáy, oái ăm, bất thường, vô lí. Song thực ra nó lại rất có lí. Vì đúng là anh 
Tràng đã nhặt được vợ thật. Chỉ một vài câu bông đùa của Tràng mà có người đã theo về làm vợ. 
Điều này đã thực sự khiến một việc nghiêm túc, thiêng liêng trở thành trò đùa và ngược lại, điều 
tưởng như đùa ấy lại chính là sự thực. Từ đây, bản thân nhan đề tự nó đã gợi ra cảnh ngộ éo le, 
sự rẻ rúng của giá trị con người. Chuyện Tràng nhặt được vợ đã nói lên tình cảnh thê thảm và 
thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.
II. ĐỌC HIỂU
1.Tình huống truyện
– Tình huống truyện : Anh Tràng vừa nghèo, vừa xấu lại là dân ngụ cư thế mà lấy được vợ ngay bình thường ấy cũng đã làm cho anh cảm động, hạnh phúc với anh thật giản dị.
+ Từ buổi sáng đó, anh mới thấy mình nên người. Anh nghĩ đến tương lai, đến sự sinh sôi nảy nở 
của hạnh phúc để rồi vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng.
+ Và người vợ nhặt của Tràng hôm nay cũng khác lắm – đó là một người đàn bà hiền hậu, đúng 
mực, không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn nữa.
+ Tràng thấy “thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ 
cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, 
phấn chấn tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận 
phải lo lắng cho vợ con sau này”. Nguồn vui ấy như tia nắng, như ánh bình minh đem sinh khí đến 
cho cuộc sống vốn đang ngập tràn sự chết chóc của cái đói tung lưới bủa vây.
+ Và trong bữa cơm đầu tiên, bữa cơm của 3 con người đang khốn khổ vì cái đói, tràn ngập sự 
đầm ấm, hoà hợp.
– Hình ảnh khép lại tác phẩm trong óc Tràng là hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người đói đi trên đê 
Sộp, gợi cho người đọc nghĩ về Việt Minh, về Cách mạng tháng Tám vĩ đại, về sự vùng dậy của 
những người dân khốn khổ, đập tan xiềng xích, giành lại cơm áo, giành lại sự sống cho bản thân, 
giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Vì thế, kết thúc của tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một 
niềm tin mãnh liệt, gieo một hạt giống hi vọng mãnh liệt vào tâm hồn Tràng, gia đình anh và tất cả 
bạn đọc chúng ta.
2.2 Thị (người “vợ nhặt”)
– Cũng giống như Tràng, khung cảnh Kim Lân để cho nhân vật này xuất hiện là một không gian tối 
sầm vì đói khát. Cũng giống như bao người khác, thị ngồi vêu cùng với mấy chị em gái nơi cửa 
nhà kho. Chị không có tên, không tuổi tác, không cha mẹ, không gia đình môt con số không tròn 
trĩnh đang bao trùm lên lá số tử vi của chị. Cái đói đã cướp đi của thị tất cả.
– Khi chưa theo Tràng về làm vợ cái đói đã để lại “dấu tích” ghê gớm trên dáng hình và tính cách 
của chị:
+ Lần gặp thứ nhất: có vẻ táo tợn, ăn nói mạnh mẽ “Có khối cơm trắng mấy giò mà ăn đấy! “Này 
nhà tôi ơi! Nói thật hay nói khoác đấy”
+ Lần gặp thứ 2: chân dung của thị khiến Tràng không nhận ra, gầy (dẫn chứng)Thị cong cớn 
trong lời nói, vô duyên trong hành động “sà xuống đánh cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh 
đúc ăn xong cầm đôi đũa quệt ngang miệng, thở: Hà ngon! Về chị thấy hụt tiền thì bỏ bố”. Tuy 
nhiên, ẩn đằng những lời nói và hành động ấy là khát vọng về hạnh phúc và sự sống.
– Kim Lân không có ý chê bai người vợ nhặt kia, dù thực tế cũng có những người phụ nữ không 
đẹp. Điều mà nhà văn muốn nhấn mạnh ở đây là: sức hủy hoại khủng khiếp của cái đói đối với 
hình hài và tính cách của con người. Vì đói mà thị cố tạo ra cái vẻ cong cớn, chao chát, chỏng lỏn 
như là để thách thức với số phận. Vì đói mà thị quên đi cả sĩ diện của mình, quên đi cả lòng tự 
trọng theo không một người đàn ông về làm vợ trong khi chẳng biết tí gì về anh ta. Vì đói mà thị 
đánh liều nhắm mắt đưa chân, đánh liều với hạnh phúc cả đời mình. Thị thật đáng thương. Nhưng 
đằng sau sự liều lĩnh ấy của thị, người đọc hiểu rằng, thị là người có ý thức bám lấy sự sống mãnh 
liệt.
– Miêu tả nhân vật thị, Kim Lân không chú trọng nhiều đến diễn biến tâm trạng bên trong mà Kim 
Lân chú ý nhiều đến hành động:
+ Thị bước sau Tràng chừng 3-4 bước, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che đi nửa mặt, mặt cúi 
xuống, chân nọ bước díu cả vào chân kia. Thị đã ý thức được về bản thân, cái dáng cúi mặt kia 
phải chăng đó là sự tủi phận
+ Về đến nhà, trông nếp nhà rẹo rọ của Tràng, thị nén tiếng thở dài, tiếng thở dài chấp nhận bước 
vào cuộc đời của Tràng.
+ Hành động khép nép, tay vân vê tà áo khi đứng trước mặt bà cụ Tứ, thị thật đáng thương cuộc đời của những người thân để mà thấu hiểu, thương xót rồi “nghẹn lời” chỉ có dòng nước mắt 
chảy xuống ròng ròng.
– Hạnh phúc mới của con làm bà cụ Tứ được vui lây, bà động viên an ủi các con, nghĩ về một 
tương lai tươi sáng phía trước:
+ Khuôn mặt của bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, bà xăm xắn quét dọn, giẫy những búi 
cỏ dại nham nhở trong vườn, thu dọn nhà cửa cho quang quẻ với hy vọng đời sẽ có cơ khấm khá.
+ Trong bữa ăn đầu tiên, mâm cơm ngày đói sao thảm hại: chỉ có một lùm rau chuối thái rối, một 
đãi muối, một niêu cháo lõng bõng toàn nước và món chính là chè khoán – cháo cám nhưng 
không khí gia đình thật ấm áp, tình chồng vợ, tình mẹ con- những nguồn động lực lớn lao ấy giúp 
họ tăng thêm sức mạnh để vượt qua thực tại.
+ Bà cụ Tứ toàn nói chuyện của tương lai, toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Bà lão 
bàn với con tính chuyện nuôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại sẽ có đàn gà cho mà xem. Câu chuyện của 
bà lão bất giác làm cho ta nhớ lại bài ca dao miền Trung- mười cái trứng. Cũng giống như tất cả 
những người bình dân xưa, bà lão đang gieo vào lòng các con bà niềm lạc quan, niềm tin và hi
vọng. Từ đàn gà mà có tất cả. Khát vọng sống bật lên ngay cả trong hoàn cảnh khốn cùng nhất 
“chớ than phận khó ai ơi- Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây”.
– Song niềm vui của bà cụ Tứ cũng thật tội nghiệp. Miếng cháo cám đắng chát và tiếng trống thúc 
thuế dồn dập vội vã đưa bà cụ Tứ trở về với thực tại với tiếng nói xen lẫn cả hơi thở dài trong lo 
lắng: “Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống 
được qua được đâu các con ạ”! Và bà lại khóc, tình thương con lại hiện hình qua những giọt nước 
mắt lặng lẽ tuôn rơi.
Với sự thấu hiểu, với sự đồng cảm, Kim Lân đã dựng lên hình ảnh bà cụ Tứ- người mẹ thương 
con, nhân hậu, bao dung. Trong hoàn cảnh đói nghèo, bà vẫn dang rộng cánh tay đón nhận người 
con dâu mặc dù trong lòng còn nhiều xót xa, tủi cực, vẫn gieo vào lòng các con ngọn lửa sống 
trong hoàn cảnh tối tăm của xã hội lúc bấy giờ.
3. Giá trị hiện thực, nhân đạo
3.1. Giá trị hiện thực:
– Truyện đã dựng lại một cách chân thực những ngày tháng bi thảm trong lịch sử dân tộc, đó là 
khoảng thời gian diễn ra nạn đói năm 1945 :
+ Cái chết đeo bám, bủa vây khắp mọi nơi.
+ Dòng thác người đói vật vờ như những bóng ma.
+ Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư từ lúc nào.
+ Âm thanh của tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết.
+ Xóm ngụ cư, với những khuôn mặt hốc hác, u tối.
+ Cái đói hiện lên trong từng nếp nhà rúm ró, xẹo xệch, rách nát.
+ Cái đói hiện hình trên khuôn mặt của chị vợ nhặt.
+ Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại.
– Truyện phơi bày bản chất tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhận đã gây ra nạn đói năm 
1945.
– Tuy nhiên, còn có một hiện thực được phản ánh trong tác phẩm: hiện thực mang tính xu thế, đó 
là tấm lòng của người dân khi đến với cách mạng.
3.2. Giá trị nhân đạo
+ Thái độ đồng cảm xót thương với số phận của người lao động nghèo khổ.
+ Lên án tội ác dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp.
+ Trân trọng tấm lòng nhân hậu, niềm khao khát hạnh phúc bình dị những người lao động nghèo.
+ Dự báo cho những người nghèo khổ con đường đấu tranh để đổi đời, vươn tới tương lai tươi 
sáng.

File đính kèm:

  • docxde_cuong_on_tap_mon_ngu_van_12.docx