Đề cương ôn tập môn Ngữ văn Lớp 12 - Phần văn học
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề cương ôn tập môn Ngữ văn Lớp 12 - Phần văn học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề cương ôn tập môn Ngữ văn Lớp 12 - Phần văn học

1 ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP VĂN HỌC TÁC PHẨM: NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄN TUÂN KIẾN THỨC TRỌNG TÂM I. HOÀN CẢNH SÁNG TÁC – Người lái đò Sông Đà là một áng văn trong tập tùy bút Sông Đà (1960) – thành quả nghệ thuật đẹp đẽ của Nguyễn Tuân trong chuyến đi gian khổ và hào hùng tới miền Tây Bắc rộng lớn của Tổ quốc. Sông Đà gồm 15 thiên tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. – Mục đích chính của chuyến đi tới Tây Bắc của nhà văn đồng thời cũng là cảm hứng chủ đạo của cả tập bút ký là tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc và nhất là chất vàng mười – “thứ vàng đã được thử lửa” ở tâm hồn những con người lao động, chiến đấu trên miền núi sông hùng vĩ và thơ mộng. II. NỘI DUNG l. Vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của hình tượng con sông Đà *Vẻ hung bạo, dữ dằn, hoang sơ – Cảnh đá bờ sông “dựng vách thành”, có quãng lòng sông bị thắt hẹp lại như cái yết hầu. – Những quãng dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm – Những “hút nước” chết người luôn sẵn sàng nhấn chìm và đập tan chiếc thuyền nào lọt vào. – Tiếng nước thác sông Đà với nhiều cung bậc dữ dội khác nhau. – Quãng sông Đà với bao đá nổi, đá chìm, phối hợp cùng sóng thác như dàn thạch trận, lập nhiều phòng tuyến + Khung cảnh Đà giang bày thạch trận trên sông. Những hòn đá to, đá nhỏ, những viên tướng đá, quân đá dường như đã từ ngàn năm mai phục sẵn cả dưới lòng sông, chỉ chờ dịp “có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm, méo mó” và cũng lộ ra vẻ nham hiểm như cái mặt nước ở chỗ có xoáy hút. + Phối hợp với đá là thác nước reo hò làm thanh viện khi đoàn binh đá xông trận. Mặt nước hò la vang dậy chi viện cho chiến thuật tập kích độc dữ, nham hiểm của đội quân đá: khi thì ẩn nấp mai phục; khi thì liều mạng đánh du kích; khi thì lật cánh quật lại đánh vu hổi; khi thì tấn công dồn dập tứ phía bằng những chiêu đòn hiểm độc nhất; tạo thành một thế trận “vang trời thanh la não bạt” *Vẻ trữ tình, thơ mộng – Từ trên cao nhìn xuống, dòng sông sau mùa lũ thật dịu dàng, như một người đàn bà kiều diễm, “tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng ba và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. – Nhìn ngắm con sông từ nhiều thời gian, không gian khác nhau, Nguyễn Tuân đã phát hiện những sắc màu tươi đẹp và đa dạng của màu nước sông Đà. Qua làn mây mùa xuân, qua ánh nắng mùa thu, con sông thật hiền hoà trong sáng với những nét thật riêng: “mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không lờ lờ canh hến của Sông Gâm, Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. – “Nhìn sông Đà như một cố nhân”, nhà văn cảm nhận rõ nét cái chất “đằm đằm ấm ấm” thân quen của con sông và nhất là cái chất thơ như ngấm vào trong từng cảnh sắc thiên nhiên sông Đà. 3 có ba tầng cổng “cánh mở, cánh khép”. Con thuyền như bay trong không gian, ông đò luôn nhìn thử thách bằng cái nhìn giản dị mà lãng mạn. + Sau cuộc vượt thác gian nan, ông đò lại có phong thái ung dung: “Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán vê’ cá anh vũ, cá dầm xanh”. Để làm nổi bật trí dũng và tài nghệ của người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một cuộc vượt thác, nhưng không phải là một cuộc vượt thác thông thường mà là một cuộc vật lộn giữa con người nhỏ bé với các thế lực khắc nghiệt của tự nhiên; là một cuộc chiến đấu không cân sức nhưng cuối cùng thì con người vẫn có thể chiến thắng. + Tri thức quân sự, võ thuật, binh pháp được Nguyễn Tuân sử dụng triệt để và sáng tạo, khiến cho việc mô tả trận chiến giữa ông lái đò với đá và thác sông Đà phảng phất như những trận đồ trường xà bát quái, cũng có đủ cửa sinh, cửa tử trong truyện cũ, gợi lên trong trí tưởng tượng của người đọc trùng trùng liên tưởng vê’ một trận đánh thư hùng, biến ảo, hấp dẫn. Trong đó, nổi bật trên cái nền độc dữ, nham hiểm và hung bạo của các thế lực thiên nhiên là hình ảnh uy nghi, lổng lộng của con người trong tư thế chinh phục, chiến thắng tự nhiên, buộc thiên nhiên phải phục vụ con người. + Đây là hình ảnh vê’ một người lao động mới mang vẻ đẹp khác thường. Hình ảnh ông lái đò cho thấy Nguyễn Tuân đã tìm được nhân vật mới cho mình, những con người đáng trân trọng, đáng ngợi ca, không thuộc tầng lớp thượng lưu đài các “một thời vang bóng” mà ngay trong quẩn chúng lao động bình thường xung quanh ta. Qua hình tượng người lái đò sông Đà, nhà văn muốn nói lên quan niệm: người anh hùng không phải chỉ có trong chiến đấu mà còn có trong cuộc sống lao động thường ngày. – Đoạn văn tả trận thủy chiến, tập trung khắc họa hình tượng ông lái đò, một lần nữa cho thấy sự uyên bác, lịch lãm của Nguyễn Tuân. Ở đây có tri thức, có ngôn ngữ sống động của quần sự, thể thao, võ thuật, điện ảnh III. NGHỆ THUẬT – Những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị. – Ngôn ngữ đa dạng, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao. – Cầu văn có nhịp điệu, lúc thì hối hả, mau lẹ, khi thì chậm rãi, từ tốn như để diễn tả vẻ đẹp trữ tình thơ mộng của con sông. IV. CHỦ ĐỀ Qua hình tượng sông Đà và người lái đò, Nguyễn Tuân muốn thể hiện niềm yêu mến thiết tha với thiên nhiên đẩt nước và ngợi ca những con người lao động – chất vàng mười của cuộc sống. HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP Câu 1 (5 điểm). Cảm nhận của anh/ chị về hình tượng con sông Đà trong bài tuỳ bút Người lái đò Sông Đà (Nguyễn Tuân). Xem mục 2. Câu 2 (5 điểm). Cảm nhận của anh/ chị vê’ hình tượng người lái đò trong bài tùy bút Người lái đò Sông Đà (Nguyễn Tuân). MỘT SỐ ĐỀ BÀI CỤ THỂ Đề bài: Về đoạn trích tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân ở sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12 (tập 1), có ý kiến cho rằng: "Đó là một công trình khảo cứu công phu". Nhưng ý kiến khác lại nhấn mạnh: "Đó là một áng văn giàu tính thẩm mĩ". Từ việc cảm nhận đoạn trích đã học, anh/chị hãy bình luận những ý kiến trên. Dàn ý I. Mở bài: Vài nét về tác giả, tác phẩm, vấn đề cần bàn luận: Nguyễn Tuân là một nhà văn tài năng với một phong cách độc đáo. Tuỳ bút Sông Đà là kết quả chuyến đi thực tế Tây Bắc trong và sau kháng chiến chống Pháp. 5 ĐỀ BÀI VẺ ĐẸP NGÔN NGỮ TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TUÂN QUA "CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ" VÀ "NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ" I. Mở bài Ngôn ngữ là một trong những khía cạnh quan trọng để khám phá tác phẩm văn học. Là một phần của hình thức nghệ thuật, ngôn ngữ không chỉ đóng vai trò như một vẻ đẹp, mà còn góp phần quan trọng trong việc tạo nên những tầng nghĩa lẩn khuất, sâu xa, thể hiện tốt nội dung tác phẩm, làm nổi bật phong cách nghệ thuật của tác giả, tạo nên nét đẹp thẩm mỹ cho văn học. Đây cũng là nét đặc trưng của loại hình nghệ thuật này. Cũng giống với những nguyên liệu để làm nên nghệ thuật, nhưng ngôn ngữ chỉ tạo nên những giá trị phi vật thể, đòi hỏi người đọc và cả người sáng tác phải vận dụng tối đa khả năng quan sát, trí liên tưởng tưởng tượng,... mới có thể tiếp cận với hình tượng nghệ thuật mà ngôn ngữ đã dày công nhào nặn. Sự huy động những khả năng ấy của con người, giúp cho mỗi chúng ta sống tinh tế hơn, hình tượng cũng sẽ sống muôn hình vạn trạng tùy theo quan niệm thẩm mỹ của mỗi người, tác phẩm nhờ vậy mà có thêcắm rễ sâu trong lòng người đọc. "Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ tài hoa" (Nguyễn Minh Châu). Toàn bộ cuộc đời cũng như gần 5000 trang viết của ông đã tạo nên một "huyền sử" - huyền sử của một người ưu lối chơi "độc tấu". Cung đàn văn chương Nguyễn Tuân được viết trên cùng một khuông nhạc nhưng với thanh âm trầm bổng khác nhau của các nốt nhạc. Phong cách Nguyễn Tuân vì vậy mà có sức hấp dẫn người đọc. Những nét thống nhất và khác biệt ấy thể hiện rõ qua hai tác phẩm "Chữ người tử tù" (1939) và "Người lái đò sông Đà" (1960). Trong văn học hiện đại Việt Nam, Nguyễn Tuân là một trong những cây bút phức tạp nhất, nhưng cũng có phong cách rõ nét, ổn định nhất. Mọi phương diện trong tác phẩm của ông, nhất là ngôn ngữ, đều in đậm dấu ấn của một phong cách. Nói đến Nguyễn Tuân, hoàn toàn có thể nói đến một phong cách ngôn ngữ. II. Thân bài. Vẻ đẹp ngôn ngữ của Nguyễn Tuân qua "Chữ người tử tù" và "Người lái đò sông Đà". “Ngôn ngữ không chỉ là công cụ của tư duy, cái vỏ chứa tư tưởng mà còn sản sinh ra tư tưởng”. Nghiên cứu phong cách của một nhà văn không thể né tránh ngôn ngữ văn chương. Và trong các thuộc tính của ngôn ngữ văn chương, tính cá thể là điều được nhấn mạnh. Đó là cơ sở để nói đến khái niệm phong cách ngôn ngữ của tác giả trong tác phẩm văn học. Nó không hề mâu thuẫn với quan điểm của các nhà lý luận khi họ xem phong cách là biểu hiện của sự độc đáo, cá biệt của một nhà văn. Như vậy, bên cạnh khái niệm phong cách nghệ thuật, còn tồn tại khái niệm phong cách ngôn ngữ của tác giả. Xét trong tương quan, phong cách ngôn ngữ là sự biểu hiện rõ nét, sinh động của phong cách nghệ thuật. Vẻ đẹp của ngôn ngữ có thể nói cũng vhính là vẻ đẹp trong phong cách nghệ thuật của những tác gia tài hoa. Với một con người như Nguyễn Tuân, thì ngôn ngữ là cách mà ông thể hiện sự tài hoa tài tử của chính mình. 1. Về mặt từ ngữ, dễ nhận thấy lớp từ Hán Việt đã được Nguyễn Tuân sử dụng với mật độ đặc biệt cao và với hiệu quả nghệ thuật rõ rệt. Không chỉ những truyện tái hiện cuộc sống thời quá vãng, mà ngay cả ở những tùy viết về cuộc sống sau cách mạng, hoặc các tiểu luận, các chân dung văn học, Nguyễn Tuân vẫn dùng từ Hán Việt một cách rất phóng khoáng. Và một điều rất đáng lưu ý, mật độ từ ngữ Hán Việt trong văn bản thuộc các thể loại khác nhau của Nguyễn Tuân không chênh lệch nhau bao nhiêu. Cách dùng của ông cũng không giống ai. Ông ít động đến những từ ngữ Hán Việt thông dụng, ngược lại, thường chọn những từ lạ, hiếm gặp, chẳng hạn: loạn đả, chư hiền, lão kĩ, hạp ấm, trà nô, tái tòng, tuý lan, bạch tuấn, bản trang, trì hồ, hội diện, vũ sảnh, tửu lâu, ngân đơn, thư phái, tuý hương, hải vị, vưu vật, dị thú, ngân thị, hư linh học, nhất đẳng điền, thân khuê oán, tương tư thảo, tình cố giao, tứ phương bát diện, tứ diện thụ địch, bát điền đại thủ, vô sở bất chí, cảnh thổ, thiết lộ, câu dầm, đối ngạn, quần phong, mộ dạ, triêu dương, cự phú, thiên trường hận ca, âm phần, nhập nhĩ nhập nhỡn, cường kí, âm tưởng, song loan, vạn toàn, xa phí, địa bạ, độc đạo, hỗn thế hỗn trần, đỉnh chung, quan phu, sơn xuyên, chương trình đại công tác, độc kế, thổ trạch, trung hưng kinh tế, văn hoả, tửu 7 góp phần tạo ra âm hưởng đặc biệt cho lời văn Nguyễn Tuân. Ấy là cái âm hưởng vừa hiện đại, vừa đĩnh đạc cổ kính, đọc lên đã cảm thấy không lẫn với giọng điệu của bất cứ nhà văn nào. Những từ ngữ ấy được Nguyễn Tuân sử dụng một cách nhuần nhuyễn, linh hoạt, tạo âm vang ngàn xưa vọng lại - âm vang của một thời xa vắng. Trong "Người lái đò sông Đà", người đọc được thưởng thức một loạt ngôn từ mới mẻ, sáng tạo, mang bản sắc riêng: "lặng tờ, bờ tiền sử, nỗi niềm cổ tích, thơ ngộ" Nhà văn thực sự là một ông lái tài hoa trên dòng sông ngôn ngữ. Các câu văn Nguyễn Tuân giàu nhạc điệu, co duỗi nhịp nhàng. Nhạc điệu trầm bổng, đưa người đọc đến với cái yên ả của dòng sông đà nơi hạ lưu: "Dòng sông quãng này lững lờ như thương nhớ những hòn thác đá xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải no khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển dòng trên". Đọc "Chữ người tử tù" ta không thể nào quên những câu văn đầy chất thơ của ông: "Trong khung cửa sổ có nhiều con song kẻ những nét đen thẳng lên nền trời lốm đốm, tinh tú, một ngôi sao hôm nhấp nháy như muốn tụt xuống phía chân giời không định". Cái nhịp điệu buồn buồn, kéo dài văng vẳng một nỗi tiếc nuối như thấm vào câu văn. Chính câu văn giàu nhịp điệu và âm vang cho nên Vũ Ngọc Phan có cảm tưởng "Đọc lên nó ngân sâu như những tiếng đàn trầm". Ở Nguyễn Tuân, ta còn bắt gặp hai thao tác ngỡ mâu thuẫn mà thực ra là thống nhất: sử dụng từ ngữ chuyên biệt, chính xác song song với hình thức biểu đạt kiểu lạ hóa. Thao tác thứ nhất, Nguyễn Tuân lựa chọn những từ ngữ thật đích đáng để gọi sự vật đúng tên của nó, đặc tả sự vật đúng tính chất của nó. Chẳng hạn: · Trong “Chữ người tử tù” Ông gọi tâm hồn và tấm lòng của quản tù "là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ". Có thể nói, bậc thầy ngôn từ - Nguyễn Tuân đã có những câu văn đặc sắc, giàu tính tạo hình khi ông lột tả chiếc gông cùm của sáu tên tử tù: "Sáu phạm nhân mang chung một chiếc gông dài tám thước. Cái thang dài ấy đặt ngang trên sáu bộ vai gầy. Cái thang gỗ lim nặng, đóng khung lấy sáu cái cổ phiến loạn, nếu đem bắt lên mỏ cân, có thể nặng đến bảy tám tạ. Thật là một cái gông xứng đáng với tội án sáu người tử tù. Gỗ thân gông đã cũ và mồ hôi cổ mồ hôi tay kẻ phải đeo nó đã phủ lên một nước quang dầu bóng loáng. Những đoạn gông đã bóng thì loáng như có người đánh lá chuối khô. Những đoạn không bóng thì lại sỉn lại những chất ghét đen sánh" Để đặc tả không gian đỏ rực và màn khói trắng, Nguyễn Tuân đã tạc lên bức điêu khắc biểu tượng, hội tụ cái đẹp: "Trong một không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ. Khói bốc tỏa cay mắt, họ dụi mắt lia lịa. Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực." Cái uyên bác của Nguyễn Tuân đã đem lại cho trang văn tính tạo hình và trở nên phong phú và chính xác hơn. · Trong “Người lái đò sông Đà” Thoạt tiên là, tác giả gọi những "hút nước" ở sông Đà là những "cái giếng sâu", gọi "thiên nhiên Tây Bắc" là "thứ kẻ thù số một", gọi "chiến trường sông Đà" là "quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà", thay cho việc dùng từ "trận đá" bằng từ "thạch trận", tiếp đó là sử dụng tri thức về âm nhạc với bản hợp âm náo loạn, kinh khiếp của thác dữ: “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”, “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa” Những cách ví von mới lạ, độc đáo cùng ngôn ngữ giàu tính biểu cảm, giàu sức gợi và nhịp điệu câu văn nhanh, gấp, đã tác động mạnh vào tâm trí người đọc, liên tục đẩy âm thanh thác dữ đến hồi cao trào, quyết liệt nhất, để rồi, khi tất cả đã qua đi, người ta có cảm giác đầu óc mình đã căng quá độ, bây giờ thừ ra nghe “Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. “Sông nước lại thanh bình”. Nếu như vẽ một cái biểu
File đính kèm:
de_cuong_on_tap_mon_ngu_van_lop_12_phan_van_hoc.doc