Đề tài Học sinh trường THPT Buôn Hồ với việc khám phá và gìn giữ những giá trị của hình thức hát dân gian Kưưt của người Êđê trên địa bàn Buôn Tring, Thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đăk Lăk
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Học sinh trường THPT Buôn Hồ với việc khám phá và gìn giữ những giá trị của hình thức hát dân gian Kưưt của người Êđê trên địa bàn Buôn Tring, Thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đăk Lăk", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề tài Học sinh trường THPT Buôn Hồ với việc khám phá và gìn giữ những giá trị của hình thức hát dân gian Kưưt của người Êđê trên địa bàn Buôn Tring, Thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đăk Lăk

ỦY BAN NHÂN DÂNa TỈNH ĐẮK LẮK SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CUỘC THI KHOA HỌC KỸ THUẬT DÀNH CHO HỌC SINH TRUNG HỌC LĨNH VỰC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ HÀNH VI HỌC SINH TRƯỜNG THPT BUÔN HỒ VỚI VIỆC KHÁM PHÁ VÀ GÌN GIỮ NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA HÌNH THỨC HÁT DÂN GIAN KƯƯT CỦA NGƯỜI ÊĐÊ TRÊN ĐỊA BÀN BUÔN TRING - TX BUÔN HỒ, TỈNH ĐĂK LĂK Tên tác giả: VĂN THỊ MỸ QUỲNH VÕ THỊ HỒNG HẠNH Đơn vị dự thi: Trườg THPT Buôn Hồ Đắk Lắk, tháng 12 năm 2017 0 MỤC LỤC Nội dung Trang Mục lục. 2 Lời cảm ơn 3 Phần Mở đầu. 4 1. Lí do chọn đề tài. 4 2. Lịch sử đề tài 5 3. Mục đích nghiên cứu. 5 4. Đối tượng và phạm vi áp dụng. 5 5. Phương pháp nghiên cứu. 6 6. Thời gian nghiên cứu. 6 Chương I. Cơ sở lí luận của vấn đề. 6 1.1. Khái quát về người Êđê. 7 1. 2. Hình thức hát dân gian Kưưt của người Êđê . 13 1. 2.1. Nguồn gốc 13 1.2.2.Môi trường diễn xướng. 15 1.2.3.Người biểu diễn và người thưởng thức. 16 1.2.4. .Đặc sắc về nội dung 19 1.2.4.1. Đoàn kết, đấu tranh, xây dựng và bảo vệ buôn làng 20 1.2.4.2. Ca ngợi cuộc sống, ca ngợi nhà nước, Đảng, lãnh tụ. 22 1.2.4.3. Ảnh hưởng của khí, hậu thời tiết đến đời sống con người. 23 1.2.4.3. Khuyên răn, giáo dục con người. 24 1.2.4.5.Tình yêu đôi lứa, nam nữ. 26 1.2.5. Hình thức. 27 1.2.5.1. Lời hát. 27 1.2.5.2. Âm nhạc. 29 Chương II. Kết quả và thảo luận. 31 2.1. Người Êđê ở buôn Tring,Phường An lạc, thị xã Buôn Hồ. 31 2.1.1. Dân cư và địa bàn cư trú. 31 2.1.2. Quá trình giao lưu văn hóa giữa người Êđê với người Kinh ở buôn 31 Tring và ảnh hưởng của nó 2.1.2.1. Tích cực 31 2.1.2.2. Tiêu cực 31 2.1.3. Kết luận. 33 2.2. Giải pháp gìn giữ và phát huy các giá trị của hình thức hát dân gian 33 Kưưt ở buôn Tring, phường An Lạc, Thị xã Buôn Hồ. 32 2.2.1. Thực trạng hát dân gian Kưưt trong đời sống hiện nay.ở buôn Tring. 33 2.2.2. Nguyên nhân. 35 2.2.3. Một số giải pháp gìn giữ và phát huy các giá trị của hình thức hát dân 35 gian Kưưt ở buôn Tring, phường An Lạc, Thị xã Buôn Hồ. 2.2.3.1. Xây dựng mô hình câu lạc bộ hát dân gian Êđê 35 2.2.3.2. Đề xuất với nhà trường tổ chức cái buổi ngoại khóa 36 2.2.3.3. Một số đề xuất kiến nghị khác. 37 2.3. Kết quả nghiên cứu 40 2.4. Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện đề tài 41 Phần kết luận, kiến nghị. 43 1. Kết luận. 43 2. Kiến nghị. 43 Tài liệu tham khảo 45 Phụ lục 46 2 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài: Đắk Lắk là điểm hội tụ của một nền văn hóa dân gian đặc sắc gồm nhiều dân tộc như Kinh, Êđê, M’nông, Nùng, Tày, J’Rai, Xê đăng, Thái, Hoa, Mạ, Dao, Khơ me, Hrê, Mường và một số dân tộc khác. Trong đó người Ê đê là chủ nhân lâu đời nhất, chiếm 17% dân số toàn tỉnh Đăk Lăk. Văn hóa Êđê nơi đây còn lưu giữ rất nhiều giá trị truyền thống như các lễ hội, tục bỏ mã, đâm trâu, các loại bùa ngãi các hình thức hát dân gian như Array, Muynh, Amơi, K’ya, Côk, Riuyang, Kưưt; hệ thống sử thi ( Klei khan), luật tục (Klei kđi); các loại nhạc cụ như Knybrố, Kypá, Đing tặc tà, Đing buốt chốc, Đing puốt plé, Đing năm; các điệu múa như Tung khắc, múa chim Grưh, múa Tắp nia. Trong đó Kưưt là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian độc đáo. Những năm gần đây do cơ chế thị trường mở cửa thông thương, cùng với chính sách đầu tư bảo tồn văn hóa dân gian chưa tương xứng, thiếu mô hình giải pháp dẫn đến thực trạng quên lãng văn hóa nghệ thuật dân gian, nạn chảy máu cồng chiêng, lớp trẻ Êđê không chịu tập đánh chiêng, chơi nhạc cụ dân tộc, tự ti về sản phẩm văn hóa dân tộc mình. Bên cạnh đó quá trình xâm nhập của đạo Tin lành Đêgar đã bãi bỏ một số luật tục như: thờ cúng tổ tiên, không mặc khố, không sinh hoạt văn hóa cồng chiềng Nền văn hóa dân gian Êđê nơi đây đang dần bị mai một. Là người con sinh ra, lớn lên và gắn bó máu thịt với mảnh đất tươi đẹp này, với đề tài khoa học “HỌC SINH TRƯỜNG THPT BUÔN HỒ VỚI VIỆC KHÁM PHÁ VÀ GÌN GIỮ NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA HÌNH THỨC HÁT DÂN GIAN KƯƯT CỦA NGƯỜI ÊĐÊ TRÊN ĐỊA BÀN BUÔN TRING – TX BUÔN HỒ, TỈNH ĐĂK LĂK” chúng em mong muốn góp phần gìn giữ và bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống của người Êđê, đặc biệt là hình thức hát dân gian Kưưt vô cùng đặc sắc của quê hương và giới thiệu đến mọi người. Đồng thời chúng em cũng mạnh dạn đưa ra các giải pháp thực thi nhất để góp phần gìn giữ những giá trị truyền thống của người Êđê và hình thức hát dân gian Kưưt. Chúng 4 Đề tài này nghiên cứu về nét độc đáo của hình thức hát dân gian Kưưt và các giải pháp gìn giữ, phát huy các giá trị của hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian này. 5. Phương pháp nghiên cứu: Quá trình nghiên cứu có sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như: - Tiến hành đi thực tế điều tra, phỏng vấn thu thập tư liệu thu thập các thông tin liên quan đến hình thức hát dân gian Kưưt , xử lý và tổng hợp. - Đánh giá, nhận xét về từng vấn đề, từng hiện tượng. - Đưa ra các kiến nghị sau khi phân tích. 6. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9/ 2017 đến tháng 12/ 2017. 6 - Phú Yên (20.905 người). - Đăk Nông (5.271 người). - Khánh Hòa (3.396 người).Tại một số quốc gia khác như: Campuchia, Hoa Kỳ, Canada và các nước Bắc Âu cũng có một ít người Êđê sinh sống, song chưa có số liệu chính thức. Lược đồ các vùng cư trú của người Êđê Trong gia đình người Êđê, chủ nhà là phụ nữ theo đó của cải và đất đai sẽ được truyền từ mẹ sang con gái, theo chế độ mẫu hệ có đặc điểm rất khá tương đồng với chế độ mẫu hệ của người Minangkabau ở đảo Sumatra của Indonesia, con cái mang họ mẹ, trước đây con trai không được hưởng thừa kế, bây giờ có sự bình đẳng trong nhà. Phụ nữ chịu trách nhiệm trong quản lý gia đình, chăm sóc con cái, mồ mả tổ tiên, của cải thừa kế cho con cái... Đàn ông chịu trách nhiệm trong việc ngoại giao, giao lưu buôn bán với cộng đồng bên ngoài đồng thời các vấn đề tôn giáo và chính trị cũng là trách nhiệm của người đàn ông. Cho nên vai trò và địa vị 8 Trong buôn có một nơi tổ chức lễ hội riêng. Ở đó đóng một cái cọc lớn để cột trâu. Trâu cúng bị đâm vào cổ để lấy máu. Trâu không đâm gọi là trâu thúi mọi người không ăn thịt. Thịt được chia thành những phần bằng nhau và phân phát cho mọi người. Tục lệ đó thể hiện tính cộng đồng cao. Hình ảnh một bộ chiêng của người Êđê Một số ché đựng rượu cần của người Ê đê 10 Hình ảnh cây nêu – Nơi ký thác tâm linh của người Êđê và đồng bào các dân tộc Tây Nguyên ❖ Một cuộc khảo sát bằng phiếu khảo sát được lập ra dành cho 100 học sinh trong trường THPT Buôn Hồ về vấn đề như sau: Bạn có những hiểu biết gì về văn hóa của người dân bản địa Êđê ở Đăk Lăk. Kết quả thu được như sau: Kết quả Có tìm hiểu và Biết một vài nét Không biết gì Nội dung biết nhiều văn hóa Hiểu biết của em 23 41 36 về văn hóa của 23% 41% 36% người dân bản địa Êđê ở Đăk Lăk Có thể thấy nhiều bạn vẫn biết rất ít hoặc không biết gì về văn hóa của người Êđê bản địa ở Đắk Lắk. Nguyên nhân có thể do các bạn ít được tiếp xúc 12 kiểu kèn bè gồm 6 ống nứa dài ngắn khác nhau, sắp thành hai bè, mỗi bè 3 ống. đầu ống cắm vào một trái bầu nhỏ. Trên lưng khúc ống khoét lỗ tạo thành nhạc. có thể khoét ở những vị trí khác nhau. Khi thổi, thổi vào cuống trái bầu. Ngoài ra có thể đệm bằng Gông Êđê, Đing ring, Đing tek. Hát Kưưt, theo bà mí Thin ( nghệ nhân buôn Tring) đi kèm với Đing buốt côk (sáo), còn gọi là Đing buốt muynh, người Êđê Mthur gọi là Đing gui dùng để đệm trong hát Muynh, không thấy dùng trong tang lễ tuy có tên là Côk. Nó được tạo từ một ống nứa dài từ 50 đến 60cm, có đường kính 1,5 cm. Ống được khoét và chừa một mảnh nhỏ dài 1,5 cm đến 2 cm, trên mảnh đó người ta đặt một mảnh nhỏ rời có kích thước như vậy và buộc chặt 2 mảnh đó lại. Sát hai mảnh nhỏ là một lỗ nhỏ để thổi, phía trên cách lỗ thổi một gang tay người ta khoét các lỗ bấm. Bốn lỗ bấm mỗi lỗ cách nhau ba ngón tay giữa. Âm thanh hoàn toàn ổn định, có thể sử dụng kỹ thuật luyến láy vuốt trượt nốt. Sau khi hát Kưưt xong thì dừng lại thổi một đoạn, sau đó tiếp tục hát. Kưưt thường dựa vào làn điệu dân gian và cách đặt lời mới mang nội dung mới mẻ. Đó là sự hòa quyện giữa truyền thống và hiện đại tạo nên nét trường tồn cho nền văn hóa. Nhạc cụ Đing buốt muinh trong hát Kưưt 14 âu yếm, mượt mà nâng giấc ngủ trẻ thơ, theo năm tháng thấm vào tâm hồn bé. Những người cao tuổi trong gia đình vào những chiều mát mẻ rỗi rãi cũng thường hát Kưưt cho con cháu nghe. Bên hiên nhà dài có một chiếc cửa, người già ngồi hát Kưưt ở đó. Con cháu ngồi dưới sàn nhà hoặc xung quanh chăm chú lắng nghe. Trong lúc lên nương, vào rừng, chăn trâu, hái rau, đi tắm, lúc đan lát hay đi dọc đường về buôn người ta cũng hay hát Kưưt cho nhau nghe. Những nhịp Kưưt vang lên tan biến đi sự vất vả cực nhọc trong lúc lao động, làm người ta thêm yêu đời, hăng say, hăm hở sống và lao động. Đôi khi một mình người ta cũng hát, lời Kưưt thể hiện những tâm sự chất chứa trong lòng khó có thể giãi bày với người khác. Có thể thấy môi trường diễn xướng của Kưưt rất rộng. Có thể diễn xướng mọi lúc, mọi nơi chứ không chịu sự ràng buộc, quy định chặt chẽ như các hình thức hát dân gian khác. Điều đó dẫn đến sự phong phú hơn về nhịp điệu cũng như nội dung của Kưưt. 1.2.3. Người biểu diễn và người thưởng thức. Trong sinh hoạt cộng đồng văn hóa dân gian đóng vai trò quan trọng là trung tâm quy tụ tất cả mọi người. Tuy nhiên ta không thể phân biệt được người thưởng thức và người sáng tạo. Đó cũng là đặc điểm riêng để phân biệt hình thức sinh hoạt văn hóa khác. Trong Kưưt cũng vậy, quá trình diễn xướng diễn ra đồng thời với quá trình sáng tác. Người diễn xướng trình bày những bài hát do mình nghe được trước đây và cả những bài hát do chính anh ta sáng tác. Trong quá trình diễn xướng Kưưt người biểu diễn không nhắc lại y nguyên những điều anh ta nghe được mà đưa vào tác phẩm cả những thay đổi do chính anh ta tạo nên. Điều đó minh chứng cho tính dị bản của Kưưt dù trước đây có cùng nội dung và hình thức. Người sáng tác tạo ra Kưưt bằng cách dựa vào môtip lời nói vần (Klêi duê) và các làn điệu dân ca có sẵn vận dụng vào các trường hợp nhất định, những môi trường diễn xướng cụ thể tạo ra các dị bản mới thích hợp với hoàn cảnh lúc bấy giờ. Giữa Kưưt và lời nói vần ( klêi duê) có mối quan hệ mật thiết. Từ đó Duê tạo ra Kưưt, phong phú về Duê dẫn đến phong phú về Kưưt. 16
File đính kèm:
de_tai_hoc_sinh_truong_thpt_buon_ho_voi_viec_kham_pha_va_gin.doc