Đề tài Mối đe dọa đối với đa dạng sinh học
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài Mối đe dọa đối với đa dạng sinh học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề tài Mối đe dọa đối với đa dạng sinh học
MỐI ĐE DỌA ĐỐI VỚI ĐA DẠNG SINH HỌC I. LỜI MỞ ĐẦU Đa dạng sinh học trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng đang đối mặt với rất nhiều mối đe dọa. Việc gia tăng dân số và tiêu dùng là áp lực dẫn tới sự khai thác quá mức tài nguyên sinh vật, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội nhanh chóng đã làm thay đổi cảnh quan thiên nhiên. Việc thay đổi phương thức sử dụng đất, xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng đã làm giảm đáng kể diện tích sinh cảnh tự nhiên, tăng sự chia cắt các hệ sinh thái, làm suy giảm môi trường sống của nhiều loài động vật, thực vật hoang dã. Việc chuyển đổi đất rừng và các vùng đất ngập nước thành đất canh tác nông nghiệp, trồng cây công nghiệp hoặc nuôi trồng thủy sản; quá trình đô thị hóa và phát triển cơ sở hạ tầng cũng dẫn đến việc mất hay phá vỡ các hệ sinh thái và các sinh cảnh tự nhiên, làm suy giảm đa dạng sinh học. Bên cạnh những mối đe dọa gián tiếp này đối với đa dạng sinh học thì mối đe dọa trực tiếp và quan trọng nhất là khai thác quá mức các tài nguyên thiên nhiên và sự suy giảm và mất môi trường sống. Mức độ ảnh hưởng tương đối của chúng phụ thuộc vào từng loài hoặc môi trường sống được quan tâm. Kiệt quệ sự sống là một kết quả không thể tránh khỏi của các cách mà loài người đã và đang lạm dụng môi trường trong quá trình gia tăng sự thống trị của mình. Khi con người nhận thức được sự phá huỷ của mình và sự phát triển không bền vững đang ngày càng tác động đến cuộc sống và tương lai của con người, thì việc nghiên cứu các hướng giải quyết sẽ phải tập trung vào chính loài người . Bản chất của sự khủng hoảng đa dạng sinh học là không nằm ngoài các khu rừng hay các thảo nguyên, mà gắn liền với cách mà chúng ta sống. Đó là sự gia tăng dân số loài người, là cách mà loài người ngày càng mở rộng nơi cư trú sinh thái của mình và sử dụng ngày càng nhiều năng suất sinh học của trái đất, là sự tiêu thụ không hợp lý và quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên, liên tục giảm số lượng các sản phẩm thương mại có nguồn gốc từ nông nghiệp và ngư nghiệp, các hệ thống kinh tế thiếu sự định giá thích hợp cho môi trường, các cấu trúc xã hội không hợp lý, và những yếu kém trong hệ thống pháp lý và nhà nước. Mối đe dọa ít được biết đến hơn là từ các loài xâm nhập (loài bản xứ hoặc loài ngoại nhập, được giải phóng một cách vô tình hay hữu ý) và nhanh chóng mở rộng các quần thể và chiếm ưu thế so với các loài khác và có tiềm năng gây ảnh hưởng xấu đến toàn bộ hệ sinh thái. Ô nhiễm có tiềm năng quan trọng, nhưng hiện có ít thông tin về những tác động trực tiếp của nó lên đa dạng sinh học. Tương tự, những tác động của khí hậu thay đổi trên toàn cầu còn ít được biết tới nhưng nó có lẽ sẽ có những tác động lâu dài và nặng nề do đất nước có đường bờ biển dài và các châu thổ có độ cao thấp. Mặc dù một mối đe dọa không đủ để gây ra tuyệt chủng của một quần thể hoặc một loài động vật hoang dã hoặc phá hủy một hệ sinh thái, nhiều mối đe dọa kết hợp với nhau lại là một vấn đề hoàn toàn khác. 3. Mất và xuống cấp của môi trường sống tự nhiên Sự xuống cấp và mất môi trường sống là mối đe dọa lớn nhất đối với đa dạng sinh học toàn cầu. Việc chuyển đổi hoàn toàn các khu vực tự nhiên thành các cảnh quan do con người chi phối thông qua việc mở rộng nông nghiệp, đào mỏ, đô thị hóa, mở rộng công nghiệp, xây dựng đập, làm đường hoặc các hoạt động phát triển khác dẫn đến mất môi trường sống và đồng thời mất đi sự đa dạng. Khi các hoạt động phát triển và nông nghiệp mở rộng chúng chia nhỏ các vùng trước đây tiếp giáp nhau và cô lập các quần thể thực vật và động vật trong các môi trường sống tự nhiên ngày càng nhỏ hơn. Việc cô lập này đe dọa sự tồn tại lâu dài của các quần thể và loài vì việc tìm các nguồn cung cấp (kể cả bạn đời) đủ để tồn tại ngày càng trở nên khó khăn. Các quần thể nhỏ hơn thường phụ thuộc vào sự di cư đến từ nơi khác để duy trì số lượng của chúng và bản thân chúng dễ bị tuyệt chủng hơn. Số lượng thấp cộng với tỷ lệ di cư giảm hoặc không có thường dẫn đến giap phối cùng dòng, nghĩa là tăng giao phối giữa các cá thể có họ hàng gần gũi. Con cái sinh ra do giao phối cùng dòng thường có khả năng tồn tại thấp hơn vì chúng có mức độ đa dạng gen thấp và khiến chúng dễ bị tác động bởi các gen gây hại mà bình thường không biển hiện và có thể tăng khả năng bị bệnh. Các môi trường rừng Việc khai thác gỗ trực tiếp (cả hợp pháp và trái phép) ảnh hưởng đến phần lớn các khu rừng ở Việt Nam. Bản thân khai thác gỗ trong nhiều trường hợp có thể không trực tiếp dẫn đến phá rừng, nhưng thường kéo theo việc di cư cùng với mở đường vào những vùng trước đây còn hoang sơ. Việc định cư đi kèm với phát triển nông nghiệp và săn bắt cũng như lấy củi đốt và đây chính là một nguyên nhân quan trọng dẫn tới phá rừng ở Việt Nam. Việc chuyển đổi trực tiếp từ rừng và các môi trường tự nhiên khác sang sản xuất nông nghiệp và trồng trọt đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho mức độ đa dạng loài và cuộc sống của những người ở gần và ở tại khu vực này. Việc tái định cư cũng dẫn đến việc khai thác gỗ và phá rừng, xói mòn, làm giảm chất lượng đất và mất đa dạng sinh học. Môi trường đồng cỏ Việc mất các hệ sinh thái đồng cỏ tự nhiên có lẽ đáng lo ngại hơn so với mất hệ sinh thái rừng vì chỉ có rất ít đồng cỏ còn sót lại. Phát triển cơ sở hạ tầng Việc xây dựng đập và hồ chứa cần thiết cho việc phát điện làm thay đổi cả môi trường nước và môi trường trên cạn và thường có những ảnh hưởng sâu sắc lên người dân địa phương. Các dự án phát triển khác nhau rất nhiều về quy mô từ những nhà máy nhỏ cung cấp điện cho một vài hộ gia đình đến các dự án khổng lồ phần lớn được đầu tư nước ngoài tài trợ có thể gây ra những hậu quả môi trường ở phạm vi quốc tế. Các môi trường nước ngọt đã bị thay đổi rất nhiều do các nhà máy thủy điện. Biến các môi trường nước chảy (thậm chí cả những vùng nước chảy chậm) thành hồ và nơi chứa nước có thể gây ra sự tuyệt chủng ở mức độ địa phương của các loài thích nghi với môi trường sông mà không thể tồn tại ở các môi trường mới bên trong hồ. Các kế hoạch phát triển lưu vực sông ở phạm vi lớn được đề xuất cũng có thể phá hủy các chế độ nước của sông và gây nguy hiểm cho các loài phụ thuộc vào chu kỳ lũ lụt - hạn hán trên toàn bộ vùng lưu vực. Con người bị ảnh hưởng cả trực tiếp lẫn dán tiếp do việc xây dựng đập. Do các chế độ dòng chảy thay đổi phá vỡ tập tính sinh học của cá., Sự suy giảm lượng nước dọc theo dòng chảy của sông có thể làm tập trung các chất gây ô nhiễm ở hạ lưu. Những thay đổi của các chu kỳ lụt cũng có thể dẫn đến sự phát tán của các loài có khả năng gây hại như loài ốc thuộc phân họ Triculinae (Neotricula aperta), là vật chủ trung gian tự nhiên của bệnh ký sinh trùng sán lá (Schistosoma mekongensis) ở người. Mối đe dọa lớn nữa đối với đa dạng sinh học của Việt Nam do phát triển cơ sở hạ tầng gây ra là việc xây dựng đường xá ở mọi mức độ. Trong cả quá trình xây dựng và sau khi hoàn thành, con đường lớn này sẽ làm xáo trộn các loài động vật và thực vật của Việt Nam thông qua việc phân chia nhỏ môi trường sống, gây lắng đọng phù sa nhiều tại các sông suối ở vùng núi, săn bắt do các công nhân xây dựng và thiệt hại vĩnh viễn đối với các hệ thống hang độc đáo và dễ bị ảnh hưởng do chất nổ được sử dụng để làm đường qua các khu vực đá vôi. 4. Cháy rừng Cháy rừng cũng là một nguyên nhân quan trọng làm suy thoái tài nguyên rừng một cách rất nhanh gây ảnh hưởng tới các hoạt động sống của sinh vật trên một diện tích rộng lớn và gây ra hậu quả xấu như xói mòn, lũ lụt, hạn hán đến cuộc sống con người. Ngày nay, cháy rừng cũng do nhiều nguyên nhân gây ra, chúng ta có thể kể đến một số nguyên nhân 6. Ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường đối với đa dạng sinh học. Sự ô nhiễm môi trường loại bỏ rất nhiều loài ra khỏi quần xã sinh học của chúng kể cả ở những nơi mà cấu trúc quần xã không bị ảnh hưởng lớn. Sự ô nhiễm môi trường bao gồm: sử dụng quá mức thuốc trừ sâu, các chất thải công nghiệp, phân bón hóa học và ô nhiễm không khí gây ra mưa axit, nitơ bị lắng đọng quá mức, các khí quang hóa và khí ôzôn. Như chúng ta đã biết khí hậu địa cầu có thể bị thay đổi trong thế kỷ XXI bởi vì lượng khí cacbonnic thải vào khí quyển quá lớn do quá trình đốt cháy các nhiên liệu hóa thạch. Mức độ tăng nhiệt độ dự kiến sẽ nhanh đến mức nhiều loài không thể nào điều chỉnh được biên độ sống của chúng và sẽ bị tuyệt chủng. 7. Sự biến đối khí hậu. Thực vật và động vật rất nhạy cảm với thời tiết. Khi thời tiết biến đổi, các loài không thể sống sót được ở một số vùng và sẽ di cư đến các vùng mới . Nếu không có vị trí nào thích hợp, loài sẽ bị tuyệt chủng khi không thể thích nghi kịp. Khí hậu trong quá khứ đã có những thay đổi rất đột ngột. Những phản ứng của các quần xã sinh vật trước những biến đổi này đã được tìm hiểu qua việc phân tích các vòng tuổi cây, lõi băng, các trầm tích của phấn hoa, than chì, động vật không xương sống và các nguyên tố hoá học. Một số các biến đổi thời tiết bất ngờ, xảy ra trong một vài thập kỷ hoặc thế kỷ, một số trong đó có liên quan đến những thời kỳ có sự tuyệt chủng hàng loạt. Các loài xâm nhập, khi được đưa vào môi trường mới và bị xáo trộn nhiều, có thể tăng số lượng rất nhiều và chiếm ưu thế, thay thế hoặc thậm chí làm cho các loài bản xứ bị tuyệt chủng. Các loài xâm nhập không chỉ đe dọa từng loài riêng lẻ mà còn đe dọa cấu trúc và chức năng của các hệ sinh thái. Các loài xâm nhập có thể là loài ngoại nhập hoặc là loài có phân bố tự nhiên trong vùng này. Các loài ngoại nhập có thể gây ra những vấn đề đặc biệt nghiêm trọng vì những nhân tố kiểm soát tốc độ phát triển quần thể của chúng, như các loài ăn thịt và các loài cạnh tranh về thức ăn và nơi ở có thể không xuất hiện ở môi trường mới. 9. Sự thay đổi trong thành phần hệ sinh thái. Sự thay đổi trong thành phần hệ sinh thái chẳng hạn như mất hoặc suy giảm của một loài có thể dẫn đến sự suy giảm đa dạng sinh học. 10. Khai thác quá mức động vật và thực vật. Việc khai thác quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên liên quan đến nhiều hoạt động trong đó có săn bắt, đánh cá, khái thác gỗ và thu thập động vật và thực vật không bền vững. Khai thác quá mức đã trở thành một mối đe dọa nghiêm trọng đối với đa dạng sinh học và ngày càng mở rộng ra nhiều loài động thực vật khác trong khi đã có hàng trăm loài bị ảnh hưởng. Hoạt động săn bắt và thu thập nhằm phục vụ nhiều loại nhu cầu và các lĩnh vực kinh tế khác nhau, từ phục vụ nhu cầu sinh sống của người dân địa phương đến các hoạt động buôn bán (chủ yếu là bất hợp pháp) tại các thị trường trong nước và quốc tế. Việc buôn bán diễn ra ở mức độ rất lớn, cả về phạm vi lẫn mức độ đe dọa của nó đối với đa dạng sinh học toàn cầu.
File đính kèm:
de_tai_moi_de_doa_doi_voi_da_dang_sinh_hoc.pdf

