Khái luận về thơ và kĩ năng phân tích thơ

docx 11 trang lethu 14/12/2025 80
Bạn đang xem tài liệu "Khái luận về thơ và kĩ năng phân tích thơ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khái luận về thơ và kĩ năng phân tích thơ

Khái luận về thơ và kĩ năng phân tích thơ
 Thầy Cường: 0935.54.35.35
 KHÁI LUẬN VỀ THƠ VÀ KĨ NĂNG PHÂN TÍCH THƠ
A. Khái luận chung về thơ:
I. Định nghĩa về thơ:
 Trước hết, ai cũng biết thơ ca lấy ngôn ngữ làm chất liệu. Nói cách khác, thơ ca là một công trình 
nghệ thuật sáng tạo bằng ngôn từ. Những thể loại văn học khác cũng lấy ngôn từ làm chất liệu, song ngôn 
ngữ thơ được nhà nghệ sĩ tổ chức thành một hệ thống vừa tinh tế, ngắn gọn, súc tích, vừa tuân theo những 
quy luật ngữ âm nhất định. 
 Thơ ca luôn phản ánh đời sống con người , xã hội thông qua những hình tượng nghệ thuật. Thơ là bày 
tỏ tâm trạng, thái độ, tình cảm của người nghệ sĩ về cuộc đời qua những hình tượng thơ độc đáo - hình 
tượng là nơi kết tinh những giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ. Nội dung của bài thơ là những rung 
động từ con tim, là những thổn thức từ tấm lòng của nhà nghệ sĩ trước cuộc đời. 
 Hình dung về thơ : Thơ là một thể loại văn học được xây dựng bằng hình thức ngôn ngữ ngắn gọn súc 
tích, theo những quy luật ngữ âm nhất định, nhằm phản ánh tâm trạng, thái độ, tình cảm, ... của người nghệ 
sĩ về đời sống thông qua những hình tượng nghệ thuật.
II. Những đặc điểm cơ bản của thơ :
1. Chủ thể trữ tình-Khách thể trữ tình ;
 a- Tính trữ tình( ):
 Tác phẩm thơ luôn thiên về diễn tả những cảm xúc, rung động, suy tư của chính nhà thơ về cuộc 
đời(vui, buồn,). Những rung động ấy xét đến cùng là những tiếng dội của những sự kiện, những hiện tượng 
đời sống vào tâm hồn nhà thơ.
 b- Chủ thể trữ tình( ) : Trữ (thổ lộ , biểu đạt), Tình (tình cảm, xúc cảm)
 Trong tác phẩm thơ ta luôn bắt gặp bóng dáng con người đang nhìn, ngắm, đang rung động, suy tư về 
cuộc sống. Con người ấy được gọi là chủ thể trữ tình. Trong tác phẩm thơ, chủ thể trữ tình là yếu tố luôn có 
mặt để thể hiện nội dung trữ tình của tác phẩm. Bất kỳ thi phẩm nào cũng đều có chủ thể trữ tình. 
 Cho nên, khi phân tích thơ, ta phải phân tích nội dung trữ tình . Muốn phân tích nội dung trữ tình thì 
nhất thiết, nắm bắt và phân tích được chủ thể trữ tình. Bởi lẽ, nội dung trữ tình luôn chứa trong chủ thể trữ 
tình.
 c. Khách thể trữ tình:
 Đối tượng được miêu tả.
2. Đặc điểm ngôn ngữ thơ:
 + Ngôn ngữ thơ phải có tính tạo hình.
 + Ngôn ngữ thơ phải có tính biểu hiện.
 + Ngôn ngữ thơ phải biểu cảm.
 . Đó là cách tổ chức sắp xếp ngôn ngữ sao cho từ một hình thức biểu đạt có thể có nhiều nội dung 
biểu đạt. Đó là quá trình chuyển nghĩa tạo nên lượng ngữ nghĩa kép trong thơ.Ví dụ :
 Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
 Lá trúc che ngang mặt chữ điền
 III. Hai giai đoạn trong quá trình tiếp nhận thơ :
 1- Cảm thơ
 Việc đánh giá, khen chê một tác phẩm thơ mà không có lý do (hay chưa tìm ra lý do) thì gọi là cảm 
thơ. Đây chính là bước khá quan trọng trong quá tình tiếp nhận thơ.
 Mỗi tác phẩm thơ được xem như là một cơ thể sống. Nó có cảm xúc, tiếng nói, cái nhìn riêng về con 
người và đời sống. Như đã nói ở phần trên, thơ là tác phẩm trữ tình, do vậy mỗi bài thơ có một trường 
cảm xúc riêng (gọi là trường cảm xúc của bài thơ). Khi tiếp nhận tác phẩm thơ, người đọc chuẩn bị 
cho mình một tâm thế, một thái độ, một cảm xúc (gọi là trường cảm xúc của người đọc). 
 Một bài thơ, người khen hay, kẻ chê dở là chuyện thường tình, lắm khi có người không có cảm xúc 
hay chính kiến. Việc cảm thơ phụ thuộc rất lớn vào độ mẫn cảm của từng người
 Chủ thể trữ tình : có lúc được gọi là nhân vật trữ tình, cái tôi trữ tình, chủ thể thẩm mỹ...
 1 Thầy Cường: 0935.54.35.35
 B.Kĩ năng phân tích thơ:
I. Phân tích thơ từ mặt hình thức.
 1. Phân tích về mặt tiết tấu (Nhạc thơ):
 - Tiết tấu là do sự luân phiên những mặt đối lập của các thuộc tính âm thanh ngôn ngữ. Nghĩa là 
 một trong hai mặt đối lập của chúng (cao- thấp, dài- ngắn, mạnh- nhẹ) luân phiên trong một khoảng 
 thời gian nào đấy tạo nên nhạc thơ.
 Nhạc thơ là gì? Ngôn ngữ thơ ca luôn được độc giả tiếp nhận ở ba mặt (âm thanh, ý nghĩa, hình thức 
 trình bày). Nhạc thơ là do âm thanh của ngôn ngữ tạo ra, khi chúng được nhà nghệ sĩ sắp xếp, tổ 
 chức theo những nguyên tắc, trật tự nhất định. Vậy bàn đến nhạc thơ là bàn đến việc tổ chức ngữ âm 
 trong thơ.
 “ Thơ là sự giao động giữa âm thanh và ý nghĩa ”
 ( Valéry)
 “Ý nghĩa của bài thơ đi bộ, còn nhạc điệu bay cao”. R.D.Tagor
 2. Số “tiếng” trong một dòng thơ( Loại thể thơ): 
 Ví dụ: Bài thơ “ Đất nước “(Nguyễn Đình Thi) chủ yếu 7tiếng/dòng, nhưng khổ cuối có sáu tiếng/ 
 dòng. Do vậy, nhạc thơ ở khổ cuối trở nên nhanh, mạnh hơn các khổ trên. Điều này giúp nhà thơ thể hiện 
 sức mạnh, tư thế hùng tráng của đất nước Việt Nam ở thời điểm quật khởi đứng lên chống Pháp.
 “ Súng nổ rung trời giận dữ
 Người lên như nước vỡ bờ
 Nước Việt Nam từ máu lửa
 Rũ bùn đứng dậy sáng loà “
 3. Phép điệp: Là hiện tượng lặp lại một hay nhiều đơn vị âm thanh của ngôn ngữ. Có hai trường hợp lặp lại 
 một cách đặc biệt là từ láy và hiện tượng gieo vần. 
 * Điệp phụ âm đầu: Là hiện tượng lặp lại phụ âm đầu. 
 Ví dụ : Đi lang thang về miền đơn độc
 (Đàn ghita của Lor-ca)
 * Điệp cấu trúc: 
 Ví dụ 2: “ Trời xanh đây là của chúng ta
 Núi rừng đây là của chúng ta ”
 (Đất nước - Nguyễn Đình Thi)
 Điệp ngữ “của chúng ta” tạo nên âm hưởng chủ đạo của đoạn thơ là niềm tự hào của tác giả về thiên 
 nhiên, đất nước và con người Việt Nam. Nghĩa của ngữ này chỉ sự sở hữu (đây là một hình thức sở hữu cách 
 trong tiếng Việt ). Do đó, đoạn thơ còn diễn tả niềm vui sướng của tác giả khi thức nhận tinh thần làm chủ 
 đất nước.
 * Điệp đoạn (còn gọi là điệp khúc):
 Ví dụ 1: Bài thơ “Tâm tư trong tù” của Tố Hữu có một điệp đoạn 4 dòng thơ: 
 “Cô đơn thay là cảnh thân tù
 Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực
 Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức
 Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu”
 4.Phép đối:
 * Khái niệm: Là hiện tượng bố trí song hành về mặt âm thanh và ý nghĩa ở 2 vế của một dòng thơ hay 
 hai dòng thơ trong một bài thơ. Tần số xuất hiện nhiều hay ít, cố định hay không cố định của phép đối tuỳ 
 thuộc vào đặc trưng của từng thể thơ. Ở thể thất ngôn bát cú thì luôn có hai cặp câu đối với nhau: Cặp câu 
 thực và cặp câu luận. Ở thể song thất lục bát thường xuất hiện cặp câu đối ở cặp câu thất. Ở thể lục bát thỉnh 
 thoảng có phép đối trên một dòng.
 + Tiểu đối: là phép đối xảy ra trong nội bộ một dòng thơ.
 Ví dụ: “Gió theo lối gió mây đường mây "
 (Đây thôn Vĩ Dạ)
 + Bình đối: là phép đối xảy ra giữa hai dòng thơ với nhau.
 3 Thầy Cường: 0935.54.35.35
 Nội dung cảm xúc trong thơ luôn được thể hiện một trong hai hình thức sau: Trực tiếp và gián tiếp 
trên ngôn ngữ thơ. 
 + Thể hiện trực tiếp bởi các từ ngữ chỉ tâm trạng.
 Ví dụ: "Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp
 Con thuyền xuôi mái nước song song
 Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
 Củi một cành khô lạc mấy dòng"
 (Tràng Giang - Huy Cận)
 Khổ thơ có hai từ "buồn", "sầu" trực tiếp thể hiện tâm trạng nhân vật trữ tình. Nỗi buồn sầu ấy là 
mạch cảm xúc của khổ thơ này nói riêng và bài Tràng Giang nói chung.
 + Nhân vật trữ tình: tác giả (Một người khách tha phương).
 + Tứ thơ: Không gian mênh mông của dòng Tràng giang, của vũ trụ.
 + Cảm xúc chính: Nỗi buồn sầu, sự cô đơn.
 Vậy chủ đề của bài Tràng giang là: Bài thơ thể hiện nỗi buồn sầu, sự cô đơn của tác giả trước không 
gian mênh mông.
 Hay
 "Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
 Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
 Đây mùa thu tới mùa thu tới
 Với áo mơ phai dệt lá vàng"
 (Đây mùa thu tới - Xuân Diệu)
Tuy nhiên, để phân tích, tìm hiểu đầy đủ giá trị nội dung và nghệ thuật của một thi phẩm ta cần đi sâu vào 
việc phân tích hình tượng ngôn ngữ thơ.
 2. Hình tượng ngôn ngữ thơ:
 Khái niệm:
 Hình tượng thơ là một hình ảnh vừa có khả năng thể hiện cái cụ thể sinh động của đời sống, vừa 
mang ý nghĩa biểu trưng về cuộc sống thông qua sự sử dụng ngôn ngữ tài tình, trí tưởng tượng, óc sáng tạo 
và cách đánh giá của người nghệ sĩ.
Chất liệu thơ (thi liệu): 
 Là hệ thống hình ảnh, sự vật được ngôn ngữ gọi tên có cùng một đặc điểm tính chất và có mối quan 
hệ tương cận với nhau.
 Thơ Hàn Mặc Tử thường sử dụng cụm 3 thực thể: Trăng - Hồn - Máu.
 - Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa.
 Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô.
 Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
 Sáng dậy cuồng điên mửa máu ra.
 - Kìa ai gánh máu đi trên tuyết
 Manh áo da cừu ngắm nở nang
 Với Tử, trăng đồng nghĩa với thế giới cái đẹp, cái vĩnh hằng, thế giới huyền ảo, hồn - máu là nỗi ám 
ảnh về cái chết từ thực tại nỗi đau bệnh tật. Trăng - hồn - máu làm nên sự cân bằng tâm trạng, cảm xúc trong 
thơ Hàn Mặc Tử.
 Ví dụ :
 Chất liệu thơ của Nguyễn Bính thường là các hình ảnh, sự vật gắn liền với đời sống làng quê Việt 
Nam. Đó là thi liệu dân gian: Trầu, cau, đền, đò, chè, mẹ già, thầy u, hoa xoan, luỹ tre, cây bàng, đầu đình, 
hội làng, ...
 Chương “Đất nước” (Trích trường ca Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm) sử dụng thi liệu 
là văn hoá dân gian, như: các câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ, truyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết, ... giúp 
tác giả thể hiện thành công hình tượng đất nước. 
3. Không gian và thời gian trong thơ:
 -Không gian và thời gian là hai phạm trù luôn có mặt trong mọi hoạt động, sinh hoạt của con người. 
Đó là sự miêu tả, trần thuật xuất phát từ một điểm nhìn :Xa –gần, cao-thấp, rộng dài,
 Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật(Vội vàng)
 5 Thầy Cường: 0935.54.35.35
 “Ngày xuân mơ nở trắng rừngđổ vàng”
 Để xây dựng hình tượng đất nước giàu đẹp, rộng lớn, bên cạnh việc sử dụng điệp từ “những”, Nguyễn 
Đình Thi còn sử dụng các tính từ có chất lượng tạo hình cao.
 - “Những ngả đường bát ngát
 Những cánh đồng thơm mát
 Những dòng sông đỏ nặng phù sa”
 (Đất nước).
5. Nghệ thuật sử dụng từ láy.
 * Tính từ láy hoàn toàn: Có chức năng giảm nhẹ tính chất được đề cập, nhưng lại gợi ra một tính chất 
khác của sự vật hiện tượng.
 Ví dụ 1: “Xanh xanh” chỉ màu xanh nhưng sắc độ nhạt hơn sắc độ do từ “xanh” gợi nên. Tuy nhiên 
nó lại gợi ra một không gian rộng lớn mà cái sắc xanh ấy bao phủ:
 “Xanh xanh bãi mía bờ dâu”
 (Bên kia sông Đuống - Hoàng Cầm)
 “Quân đi điệp điệp trùng trùng”.( Việt Bắc)
 “Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi” (Tây tiến)
 “đi lang thang về miền đơn độc
 với vầng trăng chếnh choáng
 trên yên ngựa mỏi mòn” (Đàn ghi ta của Lorca)
6. Dùng số từ
 - “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
 Một người chín nhớ mười mong một người” (Tương tư)
 - “Dẫu xuôi về phương bắc
 Dẫu ngược về phương nam
 Nơi nào em cũng nghĩ
 Hướng về anh- một phương” 
 Làm sao được tan ra
 Thành trăm con sóng nhỏ” (Sóng)
 Trong bài “Đây mùa thu tới”,Xuân Diệu cũng sử dụng số từ để xây dựng bức tranh mùa thu trong 
khoảnh khắcgiao mùa
 “Hơn một loài hoa đã rụng cành 
 Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
 Những luồng run rẩy rung rinh lá 
 Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”
 Mùa thu cảnh vật tan tác, hiu quạnh: hoa rụng, sắc đỏ rũa màu xanh, luồng run rẩy, nhánh khô gầy. 
Song đây là bức tranh lúc chớm thu nên sự tàn tạ ấy chưa nhiều. Các số từ “hơn một”, “đôi nhánh”là những 
số từ chỉ số ít đã nói lên điều đó.Bức tranh thu hiện lên rất chính xác, từ đó ta nhận ra sự cảm nhận tinh tế 
của Xuân Diệu trước bước đi của thời gian, trước biến thái của tạo vật.
 Trong thơ tiếng Việt, số từ chỉ cái duy nhất “một ”cũng thường xuất hiện. Số từ này gợi lên tính ít ỏi 
của sự vật, tính ngắn ngủi của thời gian
 "Một giã gia đình một dửng dưng"
 (Tống biệt hành - Thâm Tâm)
 Chữ “một” trong Tống biệt hành tạo nên tính duy nhất của cuộc chia ly. Những cuộc chia ly ấy chưa 
hẳn có ngày trở lại. Dù vậy, người ly khách vẫn quyết chí ra đi. .
 "Đường lên thăm thẳm một chia phôi"
 ( Tây tiến - Quang Dũng)
Các số từ: cặp, đôi...thường được nhà thơ sử dụng trong những bài thơ viết về tình yêu, quan hệ nam nữ.Ví 
dụ :
 - ” Cây me ríu rít cặp chim chuyền”
 - “ Anh với em như một cặp vần”
 (Thơ duyên - Xuân Diệu )
 7

File đính kèm:

  • docxkhai_luan_ve_tho_va_ki_nang_phan_tich_tho.docx