Sáng kiến kinh nghiệm Một số nét khi dạy phần khí hậu Việt Nam trong bồi dưỡng học sinh giỏi

doc 6 trang lethu 06/12/2025 110
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số nét khi dạy phần khí hậu Việt Nam trong bồi dưỡng học sinh giỏi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số nét khi dạy phần khí hậu Việt Nam trong bồi dưỡng học sinh giỏi

Sáng kiến kinh nghiệm Một số nét khi dạy phần khí hậu Việt Nam trong bồi dưỡng học sinh giỏi
 Một số nét khi dạy phần khí hậu Việt Nam trong bồi dưỡng học sinh giỏi
 I. Phần mở đầu
 Để nắm bắt được đặc điểm nổi bật của khí hậu nước ta và vận dụng giải thích 
các vấn đề kiến thức liên quan đòi hỏi giáo viên và học sinh phải nghiên cứu để từ đó 
vận dụng tốt cho việc học các nội dung sau, các bài học sau.
 II. Nội dung chi tiết
 1. Nét nổi bật của khí hậu nước ta là mang tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa
 a. Tính chất nhiệt đới
 - Nguyên nhân
 Tính chất nhiệt đới của khí hậu nước ta được quy định bởi vị trí của nước ta. 
Do nước ta nằm hoàn toàn trong vùng nội chí tuyến Bán cầu Bắc (từ 8034’ B đến 
23023’B) khiến cho trong năm Mặt Trời luôn nằm cao trên đường chân trời và qua 
thiên đỉnh hai lần với chu kì quang ngắn, góc nhập xạ lớn nên lượng nhiệt nhận được 
hàng năm lớn.
 Tuy nhiên do miền Bắc nước ta có vị trí gần chí tuyến Bắc nên khoảng cách 
giữa 2 lần Mặt Trời lên thiên đỉnh là rất gần nhau (Tại Đồng Văn – Hà Giang, khoảng 
cách đó chỉ là vài ngày trước và sau ngày hạ chí), càng vào Nam khoảng cách giữa 2 
lần Mặt trời lên thiên đỉnh càng tăng (Cần Thơ là 4 tháng 11 ngày) từ đó có ảnh 
hưởng khác nhau tới tính chất nhiệt đới của khí hậu Việt Nam.
 - Biểu hiện
 Tính chất nhiệt đới biểu hiện rõ nét qua yếu tố bức xạ: Do có góc nhập xạ trong 
năm lớn nên tổng lượng nhiệt mà Việt Nam nhận được rất lớn: 8000 – 10 000 0C/năm. 
Tổng bức xạ hàng năm lớn: trên 120kcal/cm2/năm, miền Nam có thể vượt 
130kcal/cm2/năm (ví dụ: TP. Hồ Chí Minh 136.4 kcal/cm 2/năm). Cân bằng xạ luôn 
dương: trung bình cả nước vượt 75 kcal/cm2/năm. Nhiều nắng: Số giờ nắng cao: 1400 
– 3000h / năm
 Về nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình năm ở các địa phương luôn lớn hơn 20 0C, có 
nơi trên 270C (trừ vùng núi cao), vượt tiêu chuẩn của vùng nhiệt đới.
 Sự chênh lệch về thời gian giữa ngày dài nhất (22/6) và ngày ngắn nhất (22/12) 
không nhiều, khoảng 1 - 2.5 giờ ( tại Đồng Văn là 2 giờ 37 phút, tại 10 0B là 1 giờ 10 
phút), do đó làm cho nhiệt độ có sự ổn định hơn.
 b. Tính chất ẩm
 - Nguyên nhân
 Tính chất ẩm của khí hậu nước ta chính là sự tổng hoà của các đợt gió mùa và 
gió tín phong trong hoàn cảnh cụ thể của thiên nhiên Việt Nam, mà nguyên nhân 
chính là do nước ta có vị trí tiếp giáp với vùng Biển Đông - Biển rộng và thuộc khu 
vực nhiệt đới ẩm (nhiệt độ cao, độ ẩm lớn), do đó nó làm biến tính các khối không khí 
qua biển vào lãnh thổ nước ta. Thực tế nó đã làm giảm bớt tính khắc nghiệt của gió 
mùa mùa đông và giảm sự oi bức của các khối không khí vào mùa hạ.
 - Biểu hiện
 1 Phạm vi hoạt động: Gió mùa ĐB hoạt động mạnh ở bắc vĩ tuyến 16 0B, khi di 
chuyển xuống phía nam, nó bị nhiệt đới hoá và hầu như bị chặn lại hoàn toàn ở dãy 
Bạch Mã. Chỉ có những đợt gió mạnh mới ảnh hưởng nhẹ tới phía nam Bạch Mã. 
Phần lãnh thổ phía Nam nước ta hầu như không có mùa đông lạnh mà chỉ có thời kì 
mát mẻ.
 Các khối không khí hoạt động luân phiên tạo nên gió mùa mùa đông: 
 - Khối khí cực đới: Pc
 + Nguồn gốc: Cao áp Xibia thổi về.
 + Có 2 khối: NPc đất và NPc biển (N chỉ sự biến tính).
 NPc đất: với tính chất lạnh, khô, có thể hoạt động tới 16 0B tạo nên mùa đông lạnh 
cho miền Bắc nước ta, gây ra kiểu thời tiết rét đậm vào đầu và giữa mùa đông (Tháng 
XI – III năm sau). NPc đất tràn vào lãnh thổ Việt Nam theo đường lục địa, qua lãnh 
thổ Trung Quốc. Vì đi qua lục địa nên có đặc trung là rất khô, khi đến Việt Nam mang 
lại kiểu thời tiết đặc trưng: lạnh, khô, trời quang mây. Nhưng đôi khi có xuất hiện mưa 
phùn với lượng nhỏ thậm chí rất nhỏ, phần lớn do Frông cực (hình thành do NPc đất 
và khối không khí tồn tại trước đó có sẵn ở nước ta).
 NPc biển: Hoạt động vào cuối mùa đông, do cuối mùa đông cao áp Xiabia yếu 
dần, tâm dịch chuyển về phía tây, hình thành cao áp phụ Biển Đông Trung Hoa. Lúc 
này NPc di chuyển vòng qua biển Nhật Bản, biển Hoa Đông  đến nước ta. Do di 
chuyển qua biển nên lượng nhiệt và ẩm tăng lên, nó trở nên ẩm hơn và ấm hơn, nên 
khi đến nước ta nó gây ra kiểu thời tiết lạnh, ẩm, trời âm u, có mưa phùn rải rác; trời 
rét buốt, lượng mưa lớn hơn nhiều so với thời kì đầu mùa đông. Lượng mưa ở đây là 
do frông hình thành có thể giữa NPc đất và NPc biển, hoặc NPc biển với khối không 
khí tồn tại trước đó.
 - Khối không khí chí tuyến xuất phát từ cao áp phụ Biển Đông Trung Hoa 
(Tp):
 Nguồn gốc hình thành: Nguồn gốc là do khối không khí NPc được nhiệt đới hoá 
do tồn tại lâu ngày trên biển Đông Trung Quốc nên nhiệt và ẩm cao hơn so với Npc 
nhưng vẫn thấp hơn so với khối không khí biển thuần tuý. Nhiệt độ của Tp khoảng 18 
– 200C và độ ẩm tương đối khoảng 80 – 85% nếu là NPc đất và 90% nếu là NPc biển 
bị biến tính.
 Sự hoạt động: Ở miền Bắc: Tp hoạt động mạnh vào đầu mùa hay cuối mùa 
đông, còn giữa mùa nó bị NPc lấn át, bị suy yếu đi. Trong các tháng cuối mùa đông, 
khối không khí này do tiếp xúc với bề mặt đất lạnh ở miền Bắc nên độ ẩm nhanh 
chóng đạt bão hòa, gây ra hiện tượng nồm. Khi có nhiễu động không khí trên cao có 
khả năng gây mưa. Còn ở miền Nam (sau Bạch Mã) Tp hoạt động mạnh, gây kiểu thời 
tiết nắng nóng, trời tạnh ráo, quang mây. 
 * Gió mùa mùa hạ:
 Gió mùa mùa hạ ở Việt Nam không đồng nhất về nguồn gốc, ảnh hưởng đến nước 
ta với hướng chủ yếu là Tây Nam; phạm vi ảnh hưởng trên cả nước, tuy nhiên ảnh 
hưởng mạnh nhất là miền Trung và miền Nam.
 3 - Do tác động của gió mùa.
 3. Tính thất thường của khí hậu Việt Nam
 Khí hậu nước ta không ổn định mà có tính thất thường, biểu hiện:
 * Thất thường trong các mùa:
 - Có năm gió mùa đông bắc đến sớm, hoạt dộng mạnh thì nước ta có mùa đông 
 rét đậm, kéo dài. Có năm ở miền Nam có hiện tượng trời lạnh.
 - Có năm gió mùa đông bắc đến muộn, hoạt động yếu thì chúng ta sẽ có nắng 
 sớm, thất thường hơn.
 - Có năm gió mùa Tây Nam hoạt động mạnh: mưa nhiều, lũ lớn
 - Có năm gió mùa Tây Nam hoạt động yếu: hạn hán vào mùa hạ.
 - Thời gian bắt đầu và kết thúc của mùa nóng và lạnh cũng không đồng nhất, dao 
 động sớm hoặc muộn hơn trị số trung bình khoảng 12 – 29 ngày.
 * Thất thường trong chế độ nhiệt: 
 - Là sự dao động nhiệt giữa các tháng trong mùa đông( nhiệt độ tháng 1 lạnh nhất 
có thể nóng hoặc lạnh hơn trị số trung bình từ 3- 6 o C, ví dụ ở Lạng Sơn nhiệt độ 
trung bình tháng 1 là 13,7o nhưng năm 1930 tháng 1 nhiệt độ giảm 7- 8 oC.Tuy vậy, ở 
khu vực Tây Bắc và Bắc Trung Bộ sự chênh lệch này thấp hơn, chỉ khoảng 1 – 20C
 - Sự dao động nhiệt giữa năm nóng nhất và lạnh nhất so với trị số trung bình làm 
cho có năm rét sớm có năm rét muộn.Ví dụ Lạng Sơn tháng 1 nhiệt độ cao nhất 31 oC, 
vào năm 1931 nhiệt độ thấp nhất -2,1 o năm 1963. Tháng 6 nhiệt độ lớn nhất là 37 o 
năm 1949, nhiệt độ thấp nhất 6oC năm 1922.
 * Thất thường trong chế độ độ mưa: diễn ra trên phạm vi toàn lãnh thổ thể hiện ở 
sự biến động lượng mưa hàng năm, từng tháng, có năm mưa nhiều, năm ít.
Ví dụ ở Lạng Sơn năm mưa nhiều nhất là 2059mm ; Năm mưa ít nhất là 756 mm. Ở 
Tp. Hồ Chí Minh và Huế các con số lần lượt là 2718/1553 và 4349/1822. 
 Trong cùng một vùng có sự khác biệt về lượng mưa: Rạch Giá 9 năm liền mưa 
lớn nhưng ở Trà vinh 8 năm liên lục không mưa.
 Với tính chất thất thường đã gây khó khăn cho sản xuất, trở ngại lớn cho việc 
quy định thời vụ và công tác phong chống bão lũ.
 III. Kết luận:
 Sự phân hóa khí hậu cũng là điều kiện để phân hoá các thành phần tự nhiên ở 
nước ta, cơ sở cho sự phân hóa sản xuất lãnh thổ. Để từ đó các em trong quá trình học 
và vận dụng làm bài theo hướng tổng hợp kiến thức trong các câu hỏi vận dụng thi 
học sinh giỏi Quốc gia được tốt.
 Đồng Hới tháng 5/2015
 Hoàng Thị Lệ
 5

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_net_khi_day_phan_khi_hau_viet_n.doc